“Bà Maria Ơi, Trên Đường Bà Thấy Những Gì…?”
Ninh Tú Toàn, OP
“Bà Maria ơi, trên đường bà thấy những gì, xin kể cho chúng tôi nghe…?”. Đây là những ca từ rất hoan hỉ của nhạc sỹ Hùng Lân mà chúng ta thường có dịp nghe trong phần ca tiếp liên của Lễ Chúa Nhật Chúa phục sinh. Sự kiện Đức Giêsu chịu chết, ở góc độ lịch sử, là một sự kiện không ai phủ nhận bởi vì có những chứng cớ xác thực. Tuy nhiên, khi đề cập đến chuyện Người đã phục sinh thì vấn đề này trở nên khá phức tạp, vì không có chứng cớ hiển minh. Do vậy, dựa vào những dấu chỉ nào để ta nói rằng Chúa đã phục sinh?
Có hai dấu chỉ căn bản mà các sách Tin Mừng thuật lại tiến trình hình thành niềm xác tín Chúa Giêsu đã phục sinh: ngôi mộ trống và những lần Chúa hiện ra.[1]
1. Ngôi mộ trống
Trong các trình thuật của Tin Mừng như : Mc 16,1-8; Mt 28,1-8; Lc 24,1-12.22-24; Ga 20,1-15, các tác giả đều nhắc đến ngôi mô trống. Nhìn một cách tổng quát, các trình thuật trên có những yếu tố chung như sau: các phụ nữ đến mộ; họ thấy tảng đá lăn sang một bên; Thiên sứ hiện ra với các bà; giải thích nguyên nhân mộ trống; các phụ nữ đi báo lại cho các môn đệ.
Nhưng khi đi vào chi tiết có sự khác nhau về: số người phụ nữ đi ra mộ, chẳng hạn như Mác-cô nêu đến ba người, còn Mát-thêu chỉ nhắc đến hai…; mục đích đi ra mộ như ở Mác-cô và Lu-ca nói các bà đi ra mộ để xức dầu cho Đức Giêsu, còn Mát-thêu chỉ nói là các bà đi thăm mộ...; phản ứng của các phụ nữ cũng không giống nhau: Mt 28,18 cho biết là các bà chạy về nhà báo tin cho các môn đệ, còn Mc 16,8 thì nói rằng vì sợ quá, các bà chẳng dám hé môi; con số Thiên sứ hiện ra cũng khác: ở Mt 28,2.5 thì chỉ có một trong khi Mc 16,5; Lc 24.3 và Ga 20.11 là hai.
Từ sự khác biệt về những chi tiết như thế, có người đặt vấn về tính xác thực của sự kiện ngôi mộ trống: phải chăng việc thấy ngôi mộ trống chỉ là chuyện bịa vì thế mà dẫn đến việc không ăn khớp với nhau nơi các trình thuật? Ta có thể trả lời về những dị biệt này như sau: Ta không thể kết luận rằng đó là một chuyện “tào lao thiên địa” mà ngược lại các sự kiện khác biện làm chứng chứng đấy không phải là chuyện bịa, vì giả như các tác giả tin mừng bịa ra thì họ cố gắng nhất trí với nhau về tất cả các chi tiết. Hơn nữa, đây không phải là một bản văn theo kiểu báo cáo trước hội đồng quan chức nhà nước, trong đó phải tường thuật tỉ mỉ tất cả các chi tiết. Thể văn Tin Mừng không phải như thế: trọng tâm nhấn ở chỗ loan báo tin vui cứu độ, còn các chi tiết khác chỉ là tuỳ thuộc.
Bên cạnh đó còn nhiều luận cứ tích cực để xác minh sự kiện ngôi mộ trống: những người ngoài giáo hội không thề phủ nhận sự kiện ngôi mộ trống; việc phụ nữ đi thăm viếng mộ hôm sau ngày Sabat là điều hợp với tục lệ thời đó, mà nếu muốn dựng chuyện, tội gì các tác giả Tin Mừng không dùng những người có thế giá hơn để làm chứng, vì thời đó, lời chứng của phụ nữ không có giá trị; và mộ chôn cất Đức Giêsu không phải là vô danh, nhưng là ngôi mộ thuộc quyền sử hữu của ông Giuse Arimathea ((Mc 15,43; Mt 27,37; Lc 23,50; Ga 19,38). Các môn đệ của cộng đoàn tiên khởi biết chỗ đó, họ thường quy tụ tại nơi đó để cử hành mầu nhiệm phục sinh chư không phải để tưởng nhớ người đã khuất.
2. Những lần hiện ra của Chúa Phục Sinh
Trình thuật những lần hiện ra của Chúa Phục Sinh còn phức tạp hơn so với trình thuật ngôi mộ trống, vì không những không theo một sườn nhất định mà còn có rất nhiều sự khác biệt: (1) nơi chốn, ở Mt 28,7 và Mc 16, 7 nói Đức Giêsu hiện ra ở Ga-li-lê, còn Lc 24 và Ga 20 ghi nhận sự hiện ra ở Giê-ru-sa-lem; (2) thời gian diễn ra các cuộc hiện ra cũng không giống nhau; (3) những người được thấy Đức Giêsu hiện ra: thường người ta chia làm hai nhóm: Tông Đồ (Mt 28,16-20; Lc 24,36-53; Ga 20,19-23.24-29; Mc 16,14-18) và những người khác, như các phụ nữ (Mt 28,9-10), hai môn đệ (Lc 24,13-35); Mc 16,12-13), Bà Maria Magđala (Ga 20,11-18; Mc 16,11); và dung mạo của Đức Giêsu: ở Mát-thêu 28,15-20 xem ra “thiêng liêng” hơn, và “thể chất” hơn ở Lu-ca và Gio-an, chẳng hạn như Người ăn uống, trò chuyện, và cho phép các môn đệ chạm vào Người.
3. Và ý nghĩa
Về sự kiện ngôi mộ trống: đây là một dấu chỉ cho niềm tin vào việc Chúa phục sinh, chứ không đương nhiên gây ra niềm tin đó. Chắn hẳn các nhà cầm quyền Do Thái bấy giờ đã thấy ngôi mộ trống nhưng họ không tin. Ngay cả các môn đệ sau khi chứng kiến ngôi mộ trống cũng không lập tức tin vào Chúa sống lại. Do vậy, chỉ nói rằng ngôi mộ trống là một dấu chỉ chứ không phải là chứng cớ của Chúa phục sinh. Dấu chỉ này củng cố thêm niềm tin vào Chúa phục sinh vì niềm tin này bắt nguồn từ chỗ khác. Sự củng cố này có thể được mô tả như sau: (1) sự kiện ngôi mộ trống củng cố cho niềm xác tín rằng Đức Giêsu đã sống lại thật cả hồn lẫn xác, bởi vì những thính giả Hy-lạp chịu ảnh hưởng của Thuyết Platon vốn tách rời hồn ra khỏi xác, thì nguy cơ có thể gây ra là sự phục sinh được hiểu về linh hồn hoặc với một thân xác mới; (2) các môn đệ mạnh dạn hơn để rao giảng Đức Giêsu phục sinh.
Về sự kiện những lần Chúa hiện ra: các lần hiện ra là có thực. Nhưng các tác giả Tin Mừng không chỉ giới hạn vào việc kể lại một sự kiện nhưng còn thêm một dụng ý thần học: (1) về nơi chốn, những lần hiện ra ở Ga-li-lê thì sát với thực tế hơn, vì sau khi Đức Giê-su bị bắt, các môn đệ đã bỏ trốn về đó nhưng dụng ý thần học ở đây đó là Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ từ Ga-li-lê nên Hội Thánh cũng khai mạc sứ vụ từ Ga-li-lê. Còn Lu-ca mô tả các lần hiện ra tại Giê-ru-sa-lem vì rất dễ hiểu đó là tất cả các biến cố cứu độ đều diễn ra ở Giê-ru-sa-lem. Với Thánh Gio-an, tác giả này đặt các lần hiện ra ở Giê-ru-sa-lem vì Cái Chết và Phục Sinh họp thành một tổng bộ; (2) trình thuật cổ xưa nhất thì mô tả Đức Giêsu thiêng liêng hơn, dành cho các độc giả Do Thái. Từ khi Tin Mừng được trình bày cho các độc giả ở vùng văn hoá Hy-lạp vốn phân biết xác và hồn rõ rệt, thì hai tác giả Lu-ca và Gio-an muốn làm nổi bật rằng Đức Giêsu sống lại với thể xác chứ không chỉ có linh hồn.
Tóm lại, qua dấu chỉ ngôi mộ trống và những lần hiện ra của Chúa Phục Sinh, các tông đồ đã tin Chúa phục sinh và dùng cả cuộc đời mình để làm chứng cho điều này; từ đó, chúng ta xác tín niềm tin của mình dừa trên niềm tin các tông đồ. Sự phục sinh của Đức Giêsu là nền tảng cho đức tin của chúng ta như thánh Phao-lô đã nói “Nếu Đức Ki-tô không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15,14) và đồng thời cũng là một mầu nhiệm đức tin nữa, tức là chúng ta đón nhận chân lý về Đức Ki-tô phục sinh bằng đức tin, chứ không phải nhờ các chứng cớ hiển minh của lý trí.